Ẩn Sĩ

hbyen

Ma Tập Sự
28/5/17
7
3
28
Phần I: Á Quỷ.
Trước đây nhà bà ngoại mình ở vườn có trồng một cây Dầu- mình không rõ cây này lắm, nhưng nghe bà ngoại tả nó có quả như cây xoan, nhét vào súng ống nứa bắn rát vãi đ. Khi mẹ mình lớn thì chặt đi lâu rồi, do có nhiều chuyện liên quan đến cây này lắm, chuyện là khi ông ngoại mình mới chuyển công tác về quê mình bây giờ, thì mua được một mảnh đất một ông cùng cơ quan, ông bà xây nhà mãi nhưng xây xong lận đận quá. Lúc mái gianh bị cháy, lúc thì cột nhà mục nó sụp một mảng nhà- mà gỗ cột là gỗ lim ông cùng các bác tự đi chặt về, rồi trộm đục tường, các kiểu. Một thời gian sau ổn định, bà mình chăn nuôi thì thời gian đầu mọi chuyện nó bình thường, sau thì đàn gà nhà bà mình nuôi không một con gà mái nào đẻ nữa- kiểu như đẻ hết trứng rồi ấy, rồi con nào con ấy gáy như gà trống vậy, nhưng con nào gáy thì chỉ ba bốn ngày sau là lăn ra chết, toàn chết kiểu như bệnh rũ gà giờ, nhưng lông gà rụng dần rồi ấy, lúc làm thịt thì chả còn giọt máu nào cả. Còn chó thì bà mình kể không bao giờ nuôi được chó lông màu khác chó màu vàng, nuôi con nào chết con ấy. không hiểu chết kiểu gì mà con nào con ấy cứ đập đầu vào cây Dầu rồi chết dưới gốc cây ấy, ông bà mình hoang mang lắm, nhưng vì các con nên cố bám trụ- vì ông đang có công tác ổn định, con bà mắc làm hàng. Còn chó thì bà mình kể không bao giờ nuôi được chó lông màu khác chó màu vàng, nuôi con nào chết con ấy. Mà mười mấy năm nay đúng là mình chưa thấy nhà bà nuôi được con chó nào màu khác vậy, chó lông vàng thì mắc đủ bênh đủ tật, ghẻ lở gì kinh qua hết, mà nó sống dai như bọ, còn chó đen chó vện thì được dăm bữa nửa tháng, là thấy ông bà lụi cụi mang chôn rồi. Rồi một ngày ông bà mới vỡ lẽ ra tại sao nhà mình nó lại lần đạn thế, thì hôm ấy là mùng 1 tháng bảy âm- tháng âm lịch thì nó đọc nhất hai ngày- mùng 1 và rằm, nếu mọi người ai chưa rõ thì mình xin nói nhiều chút: Rằm thì trăng tròn nhất, khi ấy Thái Âm khí từ mặt trăng mạnh nhất, nên âm khí nó thịnh, ma quỷ dễ lên, nhưng thánh thần cũng dễ hiện. Còn mùng một thì độc hơn, "Mùng một lưỡi trai"- nghĩa là bình thường ngày này không có trăng, học trăng chỉ hé như miệng con trai- lúc này Thái Âm khí không có, chỉ có Thiếu Âm khí từ mặt đất thôi, nên Thánh thần không có hiện ra, mà chỉ có ma quỷ ngày này- vong, ngạ quỷ,... nên cúng mùng 1 là thế. Hôm ấy thì ông đi từ nhà máy về, đi về đến ngõ thì nom thấy bóng người vắt vẻo trên cây Dầu, ở dưới là một đám lố nhố nữa, tưởng là trẻ con trong xóm trèo lên cây hái quả, ông mới quát:
- Tối thế này mà bọn mày trèo lên cây à, ngã lộn cổ bây giờ, xuống ngay!
Thì đứa trên cây mới quay đầu sang phía ông, cười khanh khách mấy cái, rồi nói vọng ra- giọng nói nghe ông kể lại là nó kèn kẹt như kiểu bụi tre lúc gió bão ấy, khó nghe, ghê ghê:
- Nhà taooo.... tao ở đấy...
Rồi nó đưa tay với lấy đầu, kéo nghẹo cổ sang một bên, vừa nói vừa cười khanh khách:
-Ngã lộn cổ như thế này đấy phỏng....
Trong ánh mắt kinh hãi của ông thì nó buông người từ cây Dầu rơi xuống đất bịch một cái, tức thì đám đen dưới đất vừa khóc vừa cười, lại rú lên một cách ghê rợn, ông mình lúc đấy khiếp hãi lắm rồi, liền vứt bịch cái xe Phượng Hoàng xuống, chạy ù té vào nhà, không phải là ông mình nhát, mà là ông chạy vào xem bà với các bác mình có việc gì không! Vào đến nơi thì ông thở phào, vội lay bà dậy rồi hỏi bà có nghe gì không, bà lắc đầu, xong đấy ông chỉ ra gốc cây Dầu ngoài vườn thì bà thấy đám ấy, nhưng mắt chúng nố đỏ lòm lên như đám đom đóm lớn màu đỏ tươi vậy, chúng vừa khóc vừa cười rồi cứ dần dần tiến về nhà ông bà mình, ông bà sợ quá ôm lấy các bác mình mà chẳng biết làm gì. Nhưng đến lúc đấy thì bống có tiếng gà gáy vang lên, bọn nó biến mất tăm...
Hôm sau, trời vừa sáng bảnh, ông liền lập tức xuống nhà ông Nhĩ- thầy cao tay nhất mấy làng mình ngày xưa. Mình kể sơ qua về cụ một chút, cụ Nhĩ ngày xưa học chữ Nho, sau bãi bỏ thi cử thì cụ từ quan về quê, nhưng cụ đỗ Tú Tài nên người cùng làng gọi cụ là thầy Tú Nhĩ, cụ nuôi Âm Binh- không phải Âm Binh kiểu thầy phù thủy nuôi là vong, quỷ đói, ngạ quỷ,.. mà cụ nuôi Binh Hồn. Ông mình kể là Binh Hồn là vong linh của binh lính tử trận, hoặc là vong linh có linh tính, không màng hương hoa, không đòi âm đức- nghe cụ Tú Nhĩ bảo đây à phép của Đạo giáo Nội tu Toàn Chân, chứ không phải phép của Ngoại tu kiểu Phù Thủy như Mao Sơn. Cụ có một cái túi, cất giữ một nhúm đậu, gọi là Đậu Binh, làm pháp Tát Đậu Thành Binh, lại có một chiếc gương bát quái- vừa là gương vừa là La Bàn, mỗi khi cụ đi làm phép thì cầm nó đi xem trạch địa từng nhà, xem hướng xem giờ đủ cả. Ông mình vừa tới thì đã thấy cụ ngồi ngay ngắn ở cái phản rồi, cụ vừa cười vừa rót nước chè rồi nói:
- Chú sang sớm thế có chuyện phỏng? Tôi thấy sắc mặt chú vượng khí không tốt, tối qua chắc gặp vật không lành, nay sang chắc vì chuyện vậy chăng?
- Cụ phán chuẩn quá ạ, chả là nhà con...
Vừa nói ông mình vừa kể chuyện nhà mình cho cụ nghe, cụ Nhĩ vừa nghe vừa nhíu mày, rồi cụ mới ôn tồn nói:
- Hỏng! Thú thực với chú, ngày xưa đất nhà chú là nơi đất nghịch- năm xưa Duy Tân ra Bắc, nhưng đến Thanh Hóa là bị giữ lại, không bước nửa chân qua Tam Điệp- sĩ phu Bắc Kỳ uất hận, dâng sớ lên Văn Miếu, rồi nguyện khất thực bộ hành từ Hà Nội vào kinh đô gặp vua, ai ngờ đâu Toàn quyền nó biết, nó bắt hết gia quyến nhà người ta, mang chém hết. Xã ta có bốn cụ tham gia bộ hành, người nhà mang chém ngót 40 người, tất cả vùi thây ở sau hào tre làng, có lẽ chết vì oán hận, nên oán khí không tan, gặp ngày mồng Môt tụ lại mà tác quái..
- Chẳng lẽ đất nhà con...
- Trước đất nhà chú gọi là Đồng Than- vì cứ mỗi tháng lại nghe tiếng than khóc, tiếng rên rỉ của gần bốn mươi mạng người chết oan kia, sau mấy cụ cao niên thỉnh Thành Hoàng ngự xuống, thì Người mới bảo là chị áp chế được hai giáp thôi, nhưng hơn ba chục năm rồi không thấy động tĩnh gì! Không nghĩ nó lại hoành hành thế. Rồi cụ lại thở dài, nói tiếp "Mà chú cũng liều, gà qué chết như vậy mà không nói tôi sớm, tôi trộm nghĩ có lẽ bọn này hút huyết khí của gia cầm, không còn là vong nữa đâu... Có khi thành đã trở thành á quỷ rồi!"
Ông mình nghe thế giật mình lắm, mới hỏi gấp cụ Nhĩ:
- Á quỷ là gì hả cụ?
- Người có tinh, khí, thần, tinh là huyết nhục, thể xác, tinh mạnh thì sống thọ, tinh yếu thì chết yểu. Thần là tinh thần, ba hồn bảy vía, thần mạnh thì vía mạnh, ma sợ quỷ khiếp, can qua được tai họa. Còn Khí, cái này ảo diệu nhất, mỗi người có khí riêng, không ai giống ai, nhưng phần nhiều chia thành Ám khí, Linh khí, người Ám khí nặng thì phần nhiều đầu trộm đuôi cướp, người Linh khí mạnh thì giàu có, phước lộc nhiều. Mà người Ám khí át Linh khí chết đi thì thành Vong, Vong này không có Tinh, lại thiếu Thần, chỉ có Khí- vậy nên không trung hòa được bản tính của mình, mà từ từ tích uất hận nên trở nên hại người. Tích nhiều quá trở thành Á Quỷ- Quỷ này là Hậu thiên, nghĩa là bẩm sinh không phải Quỷ, mà do luyện thành. So với Quỷ bình thường, nó không mạnh bằng, nhưng luận độ độc ác, gian tà, thì không Quỷ nào địch được.
Ông mình khiếp hãi lắm, bồn chồn không yên, lại nhìn thấy cụ Nhĩ đăm chiêu nên lại càng bứt rứt, thì cụ Nhĩ như sực tỉnh, quay sang nói với ông mình:
- Giờ chú nghe tôi này, bây giờ chú cứ về nhà trước, đưa thím với mấy đứa con nít đi chỗ khác ngay, rồi về đây ta tính chuyện sau, bước nào hay bước đấy. Rồi cụ bấm bấm đốt tay, gật mạnh đầu hối thúc: "Nay là ngày Thân, tháng Bảy à? Thế chú phải đưa thím ngay trong giờ Thìn, nhanh lên, không là không kịp, đợi nó đến giờ Mùi là hỏng chuyện, rồi chú về nhà tôi luôn, mai ta về nhà chú!"
Cụ Nhĩ nói thê rồi đưa tiễn ông, ông lập tức về nhà đưa bà về, vì lúc ông từ nhà cụ về đã 8 rưỡi sáng rồi, chỉ còn hơn hai tiếng để dọn đi thôi! Lu bu mãi sáng hôm sau mới về nhà cụ được!
Sau khi ông đưa bà đi, về nhà cụ Nhĩ, bấy giờ thì trong gian nhà của cụ có sẵn hai người trung niên cùng một cụ xêm xêm tuổi cụ Nhĩ nữa, cụ cười cười rồi giới thiệu với ông mình:
- Chắc chú chưa biết, đây là hai học trò lớn của tôi, giờ nó đang tu Đạo trên Thái Vi, tận trên tỉnh Ninh Bình, tối qua tôi gửi chim bắn tin, chúng nó về phụ tá một tay!
Vừa nói cụ vừa chỉ sang một hai người cạnh ông mình- hai người này vẻ mặt hiền hòa, nhàn nhã, mặc áo bào khoác hờ lên vai, nhẹ nhàng cúi đầu chào ông mình. Hồi đấy người ta vẫn mặc áo the, nhưng mặc áo bào thì hiếm, ngay cả lý trưởng cũng không mặc nữa. Tiếp đấy cụ Nhĩ lại chỉ vào cụ già bên cạnh, nói:
- Đây là sư đệ của tôi, tận trong Vinh, so với tôi thì bản lĩnh của hắn phải hơn tôi ba phần, có hắn chuyện nhà chú không phải là khó khăn gì.
Ông mình nghe thế vội quay sang cúi chào cụ già kia, cụ này nghe là sư đệ của cụ Nhĩ, nhưng mái tóc bạc trắng, mang vẻ già nua, có vẻ già hơn cụ Nhĩ phải hai chục tuổi, cụ này nghe thế đang nhắm mắt dưỡng khí liền mở hai mắt ra, cười mỉm:
- Sư huynh quá lời, tạp kỹ của tôi há lại bằng sư huynh, tôi là đi đường tắt, luyện thêm cả Ngoại tu, trả giá bằng Âm đức, Nguyên Khí mới lay lắt đến hôm nay. Giờ giúp được ai hay người ấy. Nhìn người này Vong khí quấn thân, có vẻ gặp chuyện không lành...
Cụ Nhĩ liền quay sang kể chuyện về đất nhà mình, cụ già kia càng ngày càng nhíu mày, thở hắt ra:
- Sư huynh, Á Quỷ chắc rồi, huyết chó vốn là vât tanh bẩn, nhưng có tính kị tà, mà chúng lại hút huyết chó, thì e rằng tà khí của chúng không phải dạng vừa đâu...
Cụ Nhĩ lúc đấy mới quay sang dặn dò tất cả người trong phòng:
- Tối nay ta sang nhà chú T một lần, mọi người nghỉ sớm!
****
Đến tối, cả đoàn năm người băng qua đồng hoang về nhà ông mình, nhà ông mình không phải nằm ở trong làng mà phải đi qua một cánh đồng nữa mới tới, đến nơi, cụ Nhĩ lấy chiếc La bàn ra, ngắm nghía một chút rồi quay lại dặn dò từng người.
- Ấm khí nặng quá! Giờ tôi chưa xác định được vong tà nó tập trung đến mức nào. Theo tôi thì ta nên kết Bắc Đẩu trận- tôi và sư đệ mỗi người hai cung, chú T với hai đồ đệ tôi mỗi người một cung! Bắc Đẩu tinh chủ tử, là vong hồn chi chủ- kết trận này để mượn tử khí tránh đi Quỷ Nhãn của Á Quỷ, rồi sau đấy theo sách cũ mà làm.
Mọi người gật gật đầu, ông mới hỏi cụ Nhĩ:
- Thưa cụ, con không biết pháp, chỉ là người thường, kết trận liệu có ảnh hưởng lắm không?
- Chú không cần boăn khoăn gì! Chú tuổi Dần, tôi sẽ sắp cho chú chủ vị Thiên Y- chỉ cần giữ vững tinh thần, không nên lo sợ phá vỡ vị trí, thì chắc chắn không có bất cứ thương tổn gì cả.
Rồi cụ Nhĩ xoay xoay La Bàn, đi vòng vòng quanh nhà, nhìn ngắm nhà mình một chút rồi ấn định từng người vào chỗ riêng, Bắc Đẩu trận bàn có 7 vị, năm người đứng một chỗ, còn hai vị trí thì cụ Nhĩ để ở đấy chiếc La Bàn, một vị trí thì sư đệ cụ để lại một cái thước lớn. Vừa bày xong trận thì cụ Nhĩ tung nắm đậu ra, trong ánh mắt kinh ngạc của ông mình hạt đậu dần dần run rẩy rồi bay tà tà mặt đất ngang eo người lớn, tỏa ra ánh sáng màu lam nhạt, cụ liền chỉ tay vào nhà rồi hét:
- Càn chi Thiên, Thiên tựa Thương Khung. Khôn vi Địa, Địa như Huyền Hoàng. Linh Khí quy Thiên, Ám khí trầm Địa. Tát Đậu thành Binh, Hào khí ngang Vân, kết lập Xã Đàn, pháp lập tựa Thiên Võng. Tế Trời, Tế Linh Khí, triệt Ám Khí. Thái Vi pháp lệnh, phán quyết: Sát Sát Sát!!!
SAu ba tiếng Sát của cụ, Đậu Binh tiến thành một dòng lũ lao vào đất nhà mình, đa phần lao vào cây Dầu, rồi bỗng nhiên lúc đấy gió lạnh thổi lên, thổi tắt hơn một phần ba nến mà cụ Nhị thắp lúc đọc lệnh. Rồi một tiếng the thé vang lên:
- Phá hỏng chuyện của tao... Tao vặt đầu từng thằng...
Rồi từ cây Dầu lao ra một bóng đen, mắt nó sáng rực như đèn, cao lêu nghêu, miệng há rộng đỏ lòm như máu, vừa cười méo xệch miếng lại vừa nghiến răng kèn kẹt. Nó lom lom nhìn vào từng người, rồi đưa tay với sang bên người nó. Là xác một con dê lớn, không trách dạo này hàng xóm mất nhiều súc vật, lợn gà, chó không kể, mà mất cả một số súc vật lớn như Dê, nghé nữa. Cụ Nhĩ thấy thế giật mình, nhưng vẫn quát lớn:
- Quỷ nơi nào há lại dám hoành hành như vậy! Chết là hết, lại dám quanh quẩn làm hại sinh linh, không muốn Luân hồi nữa chăng?
- Câm mồm, thằng nho già! Còn dạy tao, chết hết đi...
Nói rồi nó vung tay lên, ném xác con dê về phía cụ Nhĩ, lại tiếp tục vung tay lần nữa, nó tựa như biến thành làn khói, bây về phía Đạu Binh, mõi lần lao đến phía đám Đậu, tuy đều bị giữ lại nhưng ánh sáng của đậu yếu đi rất nhiều. Vừa lao nó vừa cười khe khé:
- Chết hết đi...tao giết hết...giết hết.
Ông mình thấy thế sợ hãi lắm, nhưng vẫn cố đứng nguyên vị trí, lúc này cụ Nhĩ mới quay sang nói lớn:
- Sư đệ, nhanh tay! Quỷ này hút được tam thực khí, hút đủ huyết khi Bò, Lợn, Dê rồi, không sợ dương khí nữa! Giúp tôi nhanh!
Lúc này sư đệ của cụ Nhĩ mới cười nhạt, nhếch môi cười khẽ, rồi phất phất tay, từ tay áo cụ mới bay ra một đoàn khói nhạt- mờ mờ ảo ảo, bay về phía trận chiến phía trước, nhưng đoàn khí vụ này không lao về phía con quỷ Dầu, mà lao về phía đậu binh, nhất thời âm binh đã yếu thế không chịu nổi nữa, tan tác như gianh. Cụ Nhĩ lúc này tâm thần tập trung vào Đậu binh, binh vỡ thì tướng cũng phải chịu ít nhiều, cụ liền run rẩy, phun một nhúm máu ra, vẻ mặt nhợt nhạt không thể tin được quay sang nhìn cụ kia:
- Sư đệ, cớ ra làm sao?
- Sư huynh, vô độc bất trượng phu! Trao pháp quyết mà sư phụ trước khi quy trần đưa cho tôi, nếu không... Nói đến đây cụ kia cười một lần nữa, ánh mắt loe lói lên, lại phất tay một lần nữa, con quỷ kia tỏ vẻ sợ sệt, lùi dần rồi tiến đến cạnh lão, ra vẻ rất cung kính, đến bấy giờ thì ai cũng đã rõ, thì ra lũ chúng nó ủ mưu, làm ra tuồng kịch để ám cụ Nhĩ một kích:
Cụ Nhĩ nét mặt bệnh tật, run rẩy không đứng vững, con hai vị đồ đệ của cụ thì cứ đứng ở vị trí cũ quay cuồng đâm chém vung tay không thôi, riêng ông mình thì không có việc gì, có lẽ lão kia cảm thấy ông mình là người thường, chẳng có tác dụng gì nên cũng lười chả thèm ra tay. Cụ nhìn lão một lúc, hỏi lớn:
- Là mi dùng pháp giúp con Quỷ này thu huyết khí, áp đi linh thức của Thổ Địa, Thành Hoàng, từ từ tu luyện?
- Phải, năm năm rồi, nếu không phải thằng này xây nhà nơi này, tôi há phải làm gấp gáp thế? Nhưng mà nhờ nó, tôi mới có cơ hội lấy mạng sư huynh chứ...
Nói rồi lão cười rộ lên, vẻ mặt ánh mắt có vẻ thỏa mãn lắm, rồi liên tục vuốt râu, nhìn về phía cũ Nhĩ. Ai ngờ lúc này con Quỷ bên cạnh lão mới đưa tay đâm lão một cái xuyên từ bụng qua lưng. Lão giật mình, đau đớn nhìn xuống, bàn tay đen xì của con quỷ mới xoắn mạnh một cái nữa, hoàn toàn làm vết đâm loang rộng ra, rồi kéo một cái nữa, móc tim của lão ra. Cuối cùng lão chỉ kịp trợn mắt lên rồi ngã xuống đất, trào máu, chết không nhắm mắt. Con Quỷ cầm tim lão, hít hà mấy cái rồi vứt toạt vào miệng rộng đầy máu, nhai nhóp nhép:
- Tim người...Người...tao muốn ăn...
Lão chết thì ảo thuật che mắt hai học trò cụ Nhĩ mất hẳn, hai học trò cụ sực tỉnh lao lại, chỉ cần nhìn họ cũng hiểu điều gì xảy ra, một người căm giận nói:
- Không ngờ sư thúc hắn dám đi theo con đường dưỡng quỷ, ai ngờ người tính không bằng trời tính! Quỷ kế đa đoan, tin lời quỷ, thà rằng tự tìm chết...
Bấy giờ con quỷ đứng yên như đang cố hấp thụ tim lão sư đệ, thì mở to mắt ra, từ mắt nó chảy ra một dòng mắt màu đỏ sậm, tanh tưởi khôn cùng, nhe lớn hai hàm răng ra, nó cười khàn rồi lao vụt lại phía đám người. Một vị đồ đệ cụ Nhĩ mới ôm láy ông mình, chạy vụt ra ngoài, số là cụ Nhĩ thấy bất ổn liền nói nhỏ với vị ấy, tí nữa liệu căm gắp mắm, thấy khó là lui, bảo kê ông mình đi trước, nếu không mạng người khó giữ.
Cụ Nhĩ và người đệ tử còn lại tiếp tục đứng bắt quyết, tay liên tục tạo thành pháp ấn, rồi lầm nhầm tung về phía con Quỷ. Sau đấy mọi chuyện không rõ ra sao, nhưng nghe ông mình thuật lại thì đi băng qua cánh đồng vẫn nghe tiếng gào tú, tiếng ấm ấm như đốt pháo.. Mãi tận gần sáng, cụ Nhĩ cùng đồ đệ cụ mới về nhà, ai đấy đầu tóc rối bù, mặt tái nhợt đi như mất máu, cụ Nhĩ vừa ngồi xuống đã thở dốc rồi nói:
- Lần này gặp may, mang được thân già về, tôi tưởng tôi không qua nổi đêm nay nữa, nhưng con Quỷ này cũng xổng mất rồi, không thể bắt được. Lần này phúc không bằng họa rồi, tôi phỏng đoán nó tu dưỡng an ổn, lại về làng mình thôi....
Ông mình nghe thế sợ lắm, xin cụ Nhĩ nghĩ cách giúp cho, cụ cũng chỉ thở hắt một hơi, rồi nói với ông mình:
- Tôi còn một đứa đồ đệ nữa, là đồ đệ quan môn của tôi, tôi đã nhắn nó. Sau này nếu làng bất ổn, nó sẽ về ngay! Còn chú, tôi khuyên chú chuyển nhà đi, dù gì chú thím cũng có công tác, chuyển vào trong làng có Âm trạch Thành Hoàng, dễ hơn...
Ông mình nghe thế cũng cảm ơn cụ Nhĩ lắm, rồi mấy hôm sau vay mượn, mua mảnh đất trong làng, còn mảnh đất nhà cũ, ít lâu sau chỗ mình rộ phong trào đào đất sét làm gạch, chỗ đó hóa lò gạch... Chỉ ban ngày mới có người tới, còn ko ai vãng lai cả, riêng gốc cây Dầu vẫn còn- và nó còn gây nhiều chuyện cho làng nữa...
 

truyenst

Admin
Thành viên BQT
4/5/17
103
28
Hay quá tiếp đi bạn ơi . Bài này mình cho lên fanpage nhé !
 

hbyen

Ma Tập Sự
28/5/17
7
3
28
Chương II: Quỷ Di Ái.
Từ khi ông tôi chuyển hẳn vào làng đã ba bốn năm trôi qua, mảnh đất Đồng Than bỏ hoang một hai năm thì rộ lên phong trào cắt đất sét làm gạch, cả cánh đồng cứ mỗi chiều đỏ rực ánh lửa. Rồi kháng chiến nổ ra, cả làng xơ xác, tiêu điều hẳn, thanh niên thì đi lính, làng chỉ còn người già và trẻ con, với số ít người đứng tuổi. Cuối năm 52, dân quân làng ở cái lò hoang Đồng Than phục kích được một toán linh Tây, giết được một thằng Việt gian. Dân làng phấn khởi lắm, nhưng vài ngày thì Pháp về, nó cáu quá đốt phá cả làng,từ cái Đình làng, đến chùa làng, đều bị đập hết, rồi đốt gần hết cả xóm Giáp. Từ đấy dân làng bỏ đi tứ xứ, mãi đến năm 54 mới về xây dựng lại.
Cụ Nhĩ bây giờ đã yếu lắm rồi, cụ cười móm mém rồi nhìn lại từng gốc cây, từng mái nhà trụi lủi., rồi cụ nhíu mày bước vội đến Đình làng. Cụ Nhĩ vội vã lật đống gỗ gạch còn sót lại của Đình lên, nhiều người lại hỏi cụ nhưng cụ chỉ lắc đầu không đáp mà chăm chú làm tiếp, mãi một lúc sau cụ thảng thốt nói lớn vọng ra:
- Cái triện đồng của Thành Hoàng đâu mất rồi! Hay là bị Tây mang đi mất rồi, thế thì hỏng!
- Cụ nói sao? Cái Triện giấu trong cột gỗ lim lâu lắm rồi không ai biết, mất rồi thì giờ tính làm sao hả cụ?
Mấy cụ cao niên khác nghe thế vẻ mặt cũng hốt lắm, không một ai hiểu lý do vì sao, rồi cụ An dè dặt hỏi. Cụ Nhĩ thì vẫn tư lự lắm, đăm chiêu một lúc thì mới thở dài đáp
.- Đâu khắc có đấy, các cụ cứ dựng tạm lại Đình làng ta, rồi ta tìm cách lo liệu sau!
Nói thế mọi người liền gật đầu, làng mình từ đấy bắt đầu xảy ra việc lạ. Cứ mỗi chiều từ núi sát ngay làng bay ra từng đàn chim lợn, cứ chập tối là từ ngọn tre ở hào làng kêu từng tiếng eng éc... eng éc... nghe đến giật mình. Bọn nó kêu rất lâu, tầm gần tiếng lại bay lại về núi, mỗi ngày như thế đâm ra dân làng sợ vẩn vơ hết. Từ lâu người ta đồn rằng chim lợn kêu là có người chết, đàng này nó cứ đứng ở hào làng kêu, mà không chỉ một con, mà là hai ba chục con một lần. Người làng ra xua đuổi đi thì chỉ được một vài phút, một vài phút sau thì lại về túm tụm lại ngọn tre rồi. Rồi cuối cùng không chỉ là chim lợn nữa, mà có người làng đã bị doa đến chếp khiếp.
Cứ tờ nờ sáng, là một túm đàn bà trong làng lại quẩy gánh, quảy hàng lên chợ huyện buốn bán, đặng kiếm vài xu về tăng gia thêm bữa cơm bữa cháo, chợ Huyện mở sáng, mà làng lại xa nên phải đi từ lúc canh ba chưa sáng rõ. Các bà đi qua cây tre, thân tre vang lên tiếng xào xạc ngày càng to, một bà mới thấy lạ hỏi lớn:
- Mấy bà có thấy lạ chửa? Rõ là không có gió mà lũy tre kêu như có bão ấy nhờ!
Mấy bà kia cũng gật gật, thì từ lúc này cây tre như đổ rạp ra giữa đường chắn nguyên đường, rồi một tiếng cười khé..khé... vang lên giữa đêm tối. Từ trong bụi tre bò ra bóng người bò ra, nó đen đúa dưới ánh trăng, cả người nát bươm như bị đá đè nát bét vậy, nó chỉ bò bằng hai tay mà nhanh như người đang chạy từng bước nhỏ. Lũy tre dài năm sáu chục mét, àm nó bò thoăn thoát như con thạch sùng, mới đấy đã đến gần đoàn người rồi, lúc này các bà mới nhìn rõ nó. Nó chỉ có phần thân trên của con người, dính với một cái chân cụt tới đùi, ổ bụng nát bét hết, vừa bò nó vừa cười, từ miệng phát tiếng cười ghê rợn, lưỡi dài quết đất, đỏ lòm. Các bà thấy thế sợ đến đờ người, may mà có một bà sợ quá tiểu cả ra, con vong thấy thế liền chần chừ không bò lại nữa, mà nhìn chăm chăm cả đoàn người. Lúc này cả đoàn mới sực tỉnh, vội rặn mỗi người một ít, rồi bôi khắp người, vứt hết gánh hàng chạy vê phía làng, vẫn nghe đàng sau tiếng thổi gió như tiếng con rắn lớn trườn vậy.
Nỗi sợ lớn dần, dân làng đành làm phiền cụ Nhĩ, cụ nghe thế liền đi ra chỗ hào tre. Cái hào tre này trồng từ lâu rồi, năm xưa mỗi làng đều là một đất riêng- nội bất xuất, ngoại bất nhập, cái hào tre trồng rắt một loại tre gai để làm thành hào thành lũy ngăn người ta ra vào. Cụ Nhĩ đến cạnh lũy tre, cụ bấm bấm đốt tay rồi mang cái La bàn ra, lẩm nhẩm vài câu. Lúc này kim La Bàn xoay tít vài vòng, các khớp răng của La Bàn, rồi dừng lại ở Khảm và Ly, lúc này cụ Nhĩ mới nhìn về phía mặt trời, rồi lẩm bẩm nói:
- Ly sính Hỏa, Khảm ưa Thủy, Nội Khảm ngoại Ly, vậy đây là quẻ Thủy Hỏa Vị Tế. Quẻ này theo Tả Ao tiên sinh giải chú thì là Chồn con qua sông, hấp tấp ướt đuôi- ắt hẳn là có tà vật mới luyện thành nhưng chưa dứt được âm khí, hơn nữa lũy tre làng mọc về phía Đông Nam làng! Đông Nam có cây lớn, cây ấy ắt dưỡng quỷ- cổ nhân nói không sai bao giờ.
Rồi cụ gọi người làng đang đứng đợi cạnh, nói lớn:
- Các chú các thím đào trốc gốc lũy tre này lên cho tôi, nhớ kỹ, nhà nào có trẻ con chưa được nửa giáp thì lùi về sau!
Tức thì người làng hè nhau đào lũy tre lên, đào sâu khoảng ba bốn mét thì thấy một bộ xương đen xỉn, chỉ có phần xương thân trên, không có xương chân phải. Cụ Nhĩ nhíu mày, liền nghĩ ngợi một chút, mới bảo tiếp:
-Các chú thím chịu khó đào về phía tay trái chú bảy mươi bước chân nữa cho tôi...
Mọi người nghe lời liền đào thêm một lúc, lúc này mới thấy dưới chân lũy tre là một ổ rắn, nhưng chỉ còn một lớp da lột, lớp da này dài dễ cả ba bốn mét, rộng hai gang tay. Cụ Nhĩ thấy thế mặt biến sắc lắm, bảo với dân làng:
- Tôi nghe nói trước làng ta có phục kích được cả tiểu đội Tây đi càn, giết được thằng Tây với thằng Việt gian phỏng? Vâng, đúng rồi cụ- một bác cầm cái mai nói vọng lên.
- Thế thì đúng rồi, thằng Tây chết lính Tây nó mang xác về rồi, còn xác này chắc là của thằng Việt gian, bọn Tây nó quẳng ở đây. Nó chết hận quá, vong nó lại quấy quá! Mà xác nó lại bị con rắn ăn mất, giờ ta phải tìm cho ra con rắn này, giết ngay nếu không để lâu tôi e có biến!
Nghe cụ nói thế người làng ai nấy mặt tái không còn giọt máu, nhất là mấy bà bị ma dọa hôm trước càng tỏ vẻ e sợ. Cụ Nhĩ trầm ngâm, rồi bảo dân làng xin chân hương ở Chùa với Đình làm mồi, sau đấy đốt luôn cái bộ xương đấy đi. Lúc đốt bộ xương, đàn chim lợn lại từ núi bay tới, kêu eng éc cả khoảng trời, mãi tới khi đốt xong cả đàn mới tản đi. Cụ Nhĩ chia phần tro thành bảy phần, bảo dân làng trôn lần lượt ở bảy nơi trong làng, cụ giải thích:
- Chia làm bảy, vì nó là đàn ông, có thất khiếu, tối lấy xương giả làm thất khiếu để tán cái Âm khí của nó ra. Mà tôi chôn đều ứng với các đỉnh của núi ta, lấy đỉnh núi làm thành hình kiếm, tựa thế Thái Sơn áp đỉnh mà từ từ làm nó yếu bớt đi.
Xong xuôi đâu đấy, cả dân làng giải tán, các cụ cao niên thì cùng nhau ra Đình bàn chuyện. Được quá nửa tuần rượu, thì có một chú hớt hải chạy đến báo:
- Không hay rồi cụ ơi, anh Định, anh Huy bị vong nghịch rồi cụ ơi..
Bác Định, bác Huy là một trong những người tham gia việc đào lũy hôm nay, nghe thế cụ Nhĩ cùng các cụ tức tốc chạy đến nhà hai bác. Lúc này sân đông nghẹt người, ai cũng lo lắng, vì nay mới làm được việc nhỏ, mà đã bị thế này, thử hỏi hôm sau còn nghiêm trọng thế nào nữa. Không biết thân mình còn giữ được mạng không.
Cụ Nhĩ chạy đến, tức thì thấy bác Huy, bác Định vị trói vào cột, mấy người khác thì vừa vẩy nước tiểu vừa lấy cành dâu vụt vào người hai bác, quật đến tóa cả máu mà mắt hai bác cứ long sòng sọc lên, lưỡi thì thụt ra thụt vào như lưỡi rắn, thở hơi ồ ồ, bụng thì to như bụng trống. Thấy cụ đến, bác Định gái mới mếu máo thưa:
- Chồng con xong việc làng, về đến nhà ăn uống xong, bảo đi đặt cái vó... Mãi không thấy về, con đi tìm thì thấy chồng con, bác Huy với bác Tiến ở lũy tre làng. Sợ quá con chạy về báo cho dân làng, từ lúc ấy chồng con đã thế này rồi cụ ạ. Mong cụ giúp chồng con, không ông ấy chết mất...
- Chú Tiến đâu...Cụ Nhĩ thấy không ổn liền quay sang hỏi gấp.
Dân làng lúc ấy mới sực tỉnh, một cụ cao niên mới giật mình:
- Thằng Tiến nó gọi mình mà chú... Thôi chết!!! Nó bị vong nghịch như thăng Định, thằng Huy cơ mà....
Rồi cụ Nhĩ mới móc trong túi một viên thuốc, bảo với bác Định gái:
- Thím hòa viên này với nước tiểu trẻ em cho chú uống, rồi lấy tiết gà trống đánh gió cho chú ấy! Nhớ kỹ là gọi người túc trực cạnh chú nhà, rồi rải vôi trước sân, cửa, vẽ thành hình cung tên! Với đốt nhanh cho các cụ, nội tối nay không được để hương tắt, tôi phải ra Đình gấp, thím thông cảm...
Rồi cụ với mấy chục người khác ra đình, chạy vào sân Đình, các cụ sững người: Đình làng tan hoang như vừa có một cơn bão quét qua, lư hương, ban bệ lung tung lộn xộn, bàn ghế xiêu vẹo, nhất là cái Vạc hóa hương của Đình lăn ra tận sân, cụ Nhĩ thấy thế kinh hãi lắm. Cụ chạy lại chỗ cái Vạc, nói lớn:
- Chết rồi, phần tro cốt của thằng Việt gian mất rồi. Tôi ếm trong này...
- Thằng Tiến nó dám..
Cụ Nhĩ bấy giờ đã bình tĩnh, cụ lặng lẽ lắc đầu:
- Không phải thằng tiến, mà là thằng Việt gian kia. Thứ ta thấy chỉ là thân xác thằng Tiến thôi... Tôi chủ quan quá. Đáng lẽ tôi phải nghĩ ra ngay từ lúc đào được cả xương thằng Việt gian, kèm theo là da của con rắn...
- Xin cụ giải thích cho chúng tôi đôi điều.. Mấy cụ cao niên nghe thế giật mình lắm, các cụ xưa nay chỉ nghe về ma Thần Vòng, ma Da,... chứ có nghe ma nào mà lừa được cả người đâu. Họa may chỉ có yêu tinh!
- Tôi chắc bảy phần, con này thành Quỷ Di Ái rồi! Quỷ Di Ái là cách gọi của phái chúng tôi, nguồn gốc nó như sau. Năm xưa thời Trần, Trần Di Ái là vương thất, Thái Tông cho đi sứ Tàu, ấy thế mà phản chúa cầu vinh, rước voi về giày mả tổ, cùng với quân Nguyên sang xâm lược nước ta, sau bị Hưng Đạo Vương giết ở Lạng Sơn, vùi thây nơi rùng rú, nhưng chết mà oán khí không tan, lại bị sơn cẩu dã thú ăn thịt. Chúng nó ăn thịt oán khí này, thành nghiện, liền tích tụ Âm khí của hắn, sau đấy bị vong của hắn phụ thể vào, từ sinh linh còn sống hóa thành quỷ vật. Thế nên con rắn kia tôi phỏng nghĩ là ăn thịt thằng Việt gian, bị vong nó phụ thể rồi, hóa thành quỷ Di Ái, không biết cớ làm sao chú Tiến lại cũng bị thế... Mà do tôi chủ quan trong Đình không ma quỷ nào vào được nên thành ra hắn đắc thủ...
Mấy cụ cao niên nghe thế sợ hãi ra mặt, quay sang nhìn nhau. Yên lặng một lúc thì một cụ mới ngỏ lời:
- Giờ mọi chuyện chỉ trông mong hết vào cụ... Chúng tôi thì vô phương thật rồi... Cần gì cụ cứ nói!
- Hôm nay mùng ba tháng năm, đến mùng năm âm, vào hôm Đoan Ngọ tôi sẽ cố một lần, dĩ dật đãi lao- ta cứ nghỉ ngơi an nhàn trước, tránh hao tổn lực lượng. Làm một lần, tiêu diệt gọn, thà mệt một lần chứ không để nó quấy quá nữa!
- Mọi chuyện nghe cụ..
Thế là mọi chuyên trong làng tạm lắng xuống, trừ chuyện bác Tiến từ hôm ấy mất tăm tích, những đàn chim lợn không còn xuất hiện nữa, giống như thời điểm bình yên trước cơn bão lớn. Đúng tiết Đoan Ngọ, sáng sớm, mọi người đã tập hợp ở sân Đình, thì cụ Nhĩ mới nói to:
- Giờ việc khẩn tôi không dài dòng, giờ làng cần chín trai đinh còn tân, tuổi Dần tuổi Thân! Bảy đứa con gái tuổi Tỵ, tuổi Mão. Ai gan lớn thì bước ra lo việc làng! Tôi thay mặc dân làng cảm ơn trước!
Tức thì có mấy thanh niên bước ra, cụ Nhĩ cười mỉm rồi quay sang nói với mấy cụ cao tuổi:
- Các cụ ở lại cứ làm theo lời tôi nhờ hôm trước, nghe bất cứ tiếng gì cũng không được mở cửa Đình, kể cả là tiếng tôi! Còn nữa, các cụ nếu thấy hương khói ở Đình tự nhiên bùng cháy, thì phải lấy ngay chiếu biểu sắc phong của Đức Thành Hoàng ra ngay... Tôi nghĩ là con Quỷ Di Ái nó sẽ về lại chỗ nó chết, để ép cái xác rắn lột xác lần nữa, cũng thuận tiện lợi dụng đất Đồng Than mà mạnh thêm...
Rồi cụ cắt đặt các bà mua về gà trống, chó mực, mèo đen, máu dê,... rồi cụ đưa cho mỗi thanh niên một túi vải nói.
- Chút nữa cứ an vj theo lời tôi, các anh chị mỗi người một túi Càn Khôn này, bày trận xong ngồi xếp bằng, nhắm mắt lại, nam tay trái cầm, nữ tay phải cầm! Dù thế nào cũng không được nhúc nhích một bước, cứ an tâm là không có gì gây nguy các anh chị hết! Lúc nào nghe tiếng gà gáy thì hãy mở mắt!
Rồi chiều tối hôm đó, cụ cùng đoàn thanh niên ra ngoài lũy tre làng đến cái lò gạch bỏ hoang, cụ xếp bảy cô gái về phía Bắc cái lò gạch, còn chín thanh niên nam về phía Nam, sau đấy cụ lấy tiết gà hắt về phía Đông, lấy máu chó rải một vòng quanh người các người kết trận kia. Xong xuôi đâu đấy, cụ bắt lấy con mèo, thả nó ở cạnh cái lò gạch, lúc này con mèo mới lò dò đi lại cái lò gạch. Bỗng nhiên bước chân nó run rẩy, rồi kêu thảm mấy tiếng, cúi xuống ngang bụng tự cắn ngang ổ bụng, lôi ruột ra rồi chết. Mất thanh niên đi cùng cụ Nhĩ thấy cảnh tượng kỳ dị thế tái mặt ngay! Cụ Nhĩ mới vung nắm đậu lên, hét lớn:
- Thái Vi pháp lệnh, Tát Đậu thành Binh! Nội Ly hành Hỏa, Ngoại Khảm hành Thủy. Bắc Minh kết trận Thất Sát chi âm trận, khai khai khai!! Nam Hoang kết Cửu Dương chi trận, khai khai khai!!! Nội Dương Ngoại Âm, Kinh Dịch chi lục thập tam trận- Thủy Hỏa Ký Tế, phược phược phược!!
Sau khi cụ niệm chú, từ vòng huyết cho của bảy cô gái ngoài cùng, bảy chiếc túi Càn Khôn dâng lên ánh sáng màu lam nhạt, bay về phía đoàn Đậu Binh, tức thì ánh sáng đậu binh sáng bừng lên. Còn từ vòng càn khôn của chín anh thanh niên thì làm ánh sáng cam nhạt, thoát cái bay về phía La Bàn của cụ. Từ trong cái kì gạch cũ vụt ra một bóng đen, lao thẳng vào đám đậu binh. Từ ánh sáng mờ ảo, cụ Nhĩ nhận ra đây là một con rắn lớn, nhưng ánh mắt của nó không phải màu vàng khé, mà là chia rõ đồng tử đen trắng như mắt người, nó vừa cắn xé vừa phun ra những thứ bầy nhầy về phía cụ, cụ Nhĩ liền vung La Bàn lên dạt hết ra. Tức thì nghe tiêng nói vang lên, tiếng nói như tiếng người ta bị bóp họng, kêu khè khè:
- Phá tao... lũ ngu dân phải chết... giết mày xong...tao giết hết....
Cụ Nhĩ liền nhíu mày, tiếp tục niệm chú, tức thì ánh sáng từ trận pháp kết từ các thanh niên trong làng càng mạnh, nó sáng đến chói mắt khiến con Quỷ phải hét lên đau đớn. Rồi tự nhiên nó rít lên một tiếng rít gió như muốn đục thủng màng nhĩ người ta, tức khắc từ trong lò gạch chạy ra một bóng người, là bác Tiến. Nhưng lúc này thì bác không còn bình thường nữa, cụ Nhĩ trông thấy cũng giật mình, người bác giống như mọc vảy, hai mắt vàng quạnh lại, đồng tử thu nhỏ thành một vạch ngang mắt. Bác chạy bốn chi như con thú, lao vào giữa đám Đậu binh, nhưng kỳ lạ là tứ chi bác khép vào người chỉ chừa ra một chút, mỗi lần lao vào người bác lại như bị chém nhẹ vài phát, máu ứa ra nhỏ tong tong xuống đất.
Cụ Nhĩ thấy thế một mặt bấm quyết cho đám Đậu binh chống cự con rắn cùng bác Tiến, một mặt xếp bằng hai tay đặt thế niêm hoa, từ từ nâng chiếc La Bàn lên, rồi cụ mở bừng mắt ra, tung mạnh chiếc La Bàn về phía con rắn, hét lớn:
- Đoan Ngọ chi dạ, Khuất Nguyên chi hiền nhân anh linh. Nay kẻ này khi chết tham sống phản quốc, khi chết thành quỷ tạo nghiệt. Nay kính xin Ngài cho ta mượn dùng một ít Chân Dương chi khí tiễu trừ yêu nghiệt, há để nó làm càn!!
Oành... một tiếng vang như nổ pháo vang lên, con rắn va với chiếc là bàn sáng như ngọn đèn và vào nhau tạo thành một vụ nổ đẩy cụ Nhĩ cùng đám Đậu Binh ra xa ba bốn mét. Lúc này con rắn người gần như nát bét, máu chảy đỏ quạnh, nó liền lao về phía bác Tiến, cụ Nhĩ biết nó định làm gấp việc phụ thể với bác, nên cụ nén đau vơ hết đám Đậu binh lại, nhân lúc nó không để ý nhét thẳng vào mồm nó. Cuối cùng phát lên một tiếng nổ bùng bục, cái đầu rắn nát bét!!! Cụ Nhĩ cùng bác Tiến bị bắn ra xa, đến lúc này thì đám gà trống được cụ mang theo nhất thời gáy to lên. Mấy người thanh niên nghe đàn gà gáy liền mở choàng mắt ra, mang cụ Nhĩ cùng bác Tiến về trong làng.
Hôm sau, cụ kể lại rằng: Cụ cần thanh niên nam nữ để kết quẻ Thủy Hỏa Ký Tế, nguyên lai là quẻ trước của quẻ Thủy Hỏa Vị Tế khi còn quỷ Di Ái chết đi, là khắc nhau. Quẻ Vị Tế là giả vờ kết thúc, nhưng mà chưa xong, ý nói âm khí mạnh mẽ tưởng chết nhưng vẫn sống, tức là thành vong thành quỷ. Cụ bắt quẻ Ký Tế thì là chết hẳn, vạn đời không được siêu sinh nữa. Còn con quỷ hóa thành quỷ Di Ái ấy cụ tìm mãi không được cái triện đồng của Thành Hoàng, e rằng không phải nó lấy đi, nhưng vì nó ở trong hào làng đã lâu, nên dính khí tức của làng, Thành Hoàng không phân biệt được, nên nó lấy được tro cốt mang đi. Về phần tro cốt là dùng để hoán xác với bác Tiến, nếu hoàn thành, bác Tiến sẽ hóa xà tinh, còn nó có thân xác thịt, có dương khí của bác, nhưng mọi chuyện chưa thành thì đã bị diệt trừ. Còn về bác Tiến là do bác trong lúc đào xác nó thấy có con dao dù của Pháp nên bác cầm về, ai ngờ dính phép của con quỷ. Từ sau lần đấy bác bị câm không nói được, nghe nói do lưỡi bị thụt vào, sức khỏe cũng giảm dần, vài năm sau bác mất.
Lại nói ngày Đoan Ngọ là để tưởng niệm Khuất Nguyên- thân là kẻ sĩ yêu nước, sau trầm mình tự tử ở Mịch La, chết thành tiên. Là người thương dân, hay tiễu trừ ma quỷ, hận kẻ bán nước cầu vinh, nên nhàm ngày Đoan Ngọ để mượn dùng linh lực của người này!
Cuối cùng, thì kẻ bán nước cầu vinh không có kết gì tốt, sống bị phỉ nhổ, chết không siêu sinh được, nhớ kỹ nhớ kỹ~~~
 
Chỉnh sửa cuối:

truyenst

Admin
Thành viên BQT
4/5/17
103
28
Hay quá :D hóng tiếp .

/Sp: ad mới gộp 2 bài viết lại thành 1 nha . Bạn nên để cùng 1 chủ đề đừng chia ra mọi người sẽ dễ đọc hơn .
 

cần gì cái tên

Ma Lão Luyện
4/6/17
66
8
34
Quá hay tui rất thích đọc những thể loại truyện thế nay.hóng tiếp nhanh ra những thể loại này nha thớt
 

hbyen

Ma Tập Sự
28/5/17
7
3
28
Phần III: Câu hồn quỷ.
Sau lần cả làng trừng quỷ Di Ái rồi, tuy là mọi chuyện sinh hoạt của làng đều vô cùng bình thường, tinh lặng, nhưng người tinh ý thì phát hiện ngay ra đây chỉ khoảng thời gian tĩnh lặng trước cơn bão. Từ khi các cụ phát hiện cái Triện đồng của Thành Hoàng đã biến mất không tung tích, thì trong làng nhiều chuyện khó hiểu liên tiếp xảy ra nhưng với nhân vật chính là người khác- những người không phải là dân gốc của làng. Họ là những người ngụ cư mới chuyển tới gần đây.
Theo tục lệ của làng, thì không phải dân ly tán cứ đến là được ở trong làng, muốn nhập tịch làng, thì có hai cách: Thứ nhất, chồng đủ tiền đóng góp cho làng, chính là mua một chức kiểu ông hương, ông cửu rồi mở tiệc khao cả làng, lúc này thì cố nhiên có một suất hương ước. Thứ hai là Tam đại đồng hương, nghĩa là từ ba đời ở cạnh jàng thì nếu có nguyện vọng nhập làng thì sẽ cho nhập. Nhưng sau thời kháng chiến thì mấy cái thủ tục này bị loại bỏ, nên nhiều người cũng chuyển về làng ở, một phần vì vùng độc lập lúc này còn chưa ổn định, thứ hai vì làng tôi có vị trí khá thuận lợi. Ngặt một nỗi, đất trong làng cũ thì không đủ do có cái lũy tre trồng sẵn rồi, vậy nên hầu hết người ngụ cư đều chuyển ra phía ngoài làng, chỗ Đồng Than cũ mà đất nhà ông tôi ở, tạo thành một xóm nhỏ tầm mươi nóc nhà, chúng tôi gọi đấy là xóm Trại. Tầm vài ba tháng đầu thì không có chuyện gì to tát, cho đến một hôm trời vừa tang tảng sáng thì có người ở xóm Trại hốt hoảng chạy vào trong làng báo tin: Nhà cô Huy mới chuyển tới xóm Trại đều thắt cổ chết hết cả rồi! Mọi người trong làng nghe thế mới hoảng sợ chạy ù ra xóm Trại, bước vào mái nhà gianh của cô Huy, ai ai cũng thấy kinh hoàng: Ba xác chết lủng lẳng giữ nhà, dây thừng treo trên xà nhà bện từ hai ba sợi dây đay lớn, nó thít chặt phần cổ họng của ba thân xác người xấu số, khiến cho người họ tím tái hẳn đi, nhưng kinh dị nhất là vẻ mặt của ba tử thi, một vẻ mặt khiến ai cũng ám ảnh! Cả ba xác chết đều xuất huyết ở tai, mũi và mắt, mặt tím ngắt vì thiếu khí nhưng lại có vẻ mặt cực kỳ mãn nguyện, khóe miệng cười rộng hết cỡ, ánh mắt mở to ra như họ đang thực hiện một việc vui sướng nhất cuộc đời. Các cụ cao niên vùng dân làng thấy thế ai cũng chết lặng đi, vẻ mặt quỷ dị của họ làm cho lòng người bất an. Xôn xao nửa ngày, các cụ mới sực nhớ ra phải hạ thi xuống đất, liền sai người gỡ vòng dây đay ra hạ thân xuống, rồi cụ An trầm giọng nói:
- Nay cụ Nhi đi có chuyện không ở làng, nên mấy chuyện quỷ quyệt như thế này thì làng khó quyết! Nhưng mà vẫn phải làm, tôi thì tôi có nghe phong phanh về ma Thần Vòng. Ngặt một nỗi chỗ Đồng Than này chưa từng nghe có vụ thắt cổ nào hết, nhưng để chắc chắn các chú cứ đào đất dưới chân nhà cô Huy cho tôi!
Tức thì tiếng có tiếng dạ vâng, mấy chú liền đào thật sâu xuống chỗ chân xác chết, liền đào lên ba cục đá màu đen nhánh, có mùi tanh tanh như cá ươn, cụ An nhíu mày liền lấy tay nải ra bỏ cả ba viên vào đấy,, rồi bảo người làng đặng làm phúc chôn cất cho cả ba người nhà cô Huy, sau đấy gửi điện báo cho chú Huy đang công tác ở tỉnh về chuyện này.
Chú Huy đang làm ở Sở Điện tỉnh nghe thế tức tốc về nhà ngay, nhưng về đến nơi chỉ kịp nhìn mặt vợ và hai con lần cuối, chú suy sụp đến mức đờ đẫn hết cả người. Rồi khoảng năm sáu ngày sau thì chú dường như phát điên hản, suốt ngày cười thơ thẩn, rồi đột nhiên lại khóc oàn như đứa trẻ con. Gặp ai đều chạy đến núp sau lưng người ta hết, hoảng hốt như một đứa trẻ chỉ lắp bắp về phía nhà chú:
- Nó... nó lại đến kìa...nó đến bắt tôi...bắt hết....
Nghe chú nói thế đầu tiên mấy người xung quanh chỉ cười cười và không để ý, nhưng cho tới khi căn nhà cũ của chú xuất hiện tiếng cười văng vẳng khiến mấy nhà gần đấy thấp thỏm lo sợ. Vì chú Huy đã ngủ vạ ngủ vật trong làng từ lâu không về nhà, còn điều họ sợ nữa là tiếng cười trâm trầm như tiếng người đàn ông bốn năm mươi tuổi, nhất là khi phát ra tiếng cười khanh khách giữa đêm khuya thế này mà chó không hề sủa lên một tiếng nào, cứ như chỉ có người làng mới có thể nghe được tiếng cười này vậy Từ đấy nhà cô Huy vắng hẳn người qua lại, ít người bén mảng tới hẳn, nhưng người làng đi đặt vó đêm vẫn đồn có hai ba bóng trắng lảng vảng trong căn nhà, rồi thỉnh thoảng nhà có ánh đèn sáng vút lên như đom đóm rồi tắt hản.
Rồi sự việc cũng loãng dần, cho đến một hôm mọt nhóm đàn ông đi gặt thuê của làng em đi gặt cho xã bên, nên cơm đùm cơm nắm đi từ sáng cho nhiều người thuê với đỡ nắng, thế là cả mấy người ôm thành một đoàn băng qua cánh đồng Than để đi tắt cho nhanh, đến gần nhà cô Huy thì một chú mới quay sang lẩm bẩm:
- Sao mới vụ Chiêm mà tự nhiên buốt thế nhể?
Thế là chú này mới xoa xoa tay vào nhau chõ đỡ cảm giác lạnh thì tự nhiên quờ phải thứ gì cứng cứng, lạnh nhớt như viên đá lạnh, chú giật mình quay lại đàng sau thì là cô Huy, cô không khác gì lần cuối người ta nhìn thấy cô cả: Mắt đỏ thẫm nhỏ máu như sắp lồi ra ngoài, miệng lưỡi do thiếu khí nên thè hết ra ngoài gần nửa gang tay, mũi tai toàn máu bết đen xì, nhưng miệng vẫn cười đến tận mang tai.... Cô Huy như thế không nhìn thấy chú cứ thế là thì thầm "Nó bắt tối... Nó bắt tôi.. Nó sắp đến rồi..." Làm chú điếng hết cả người, kỳ lạ nhất là mấy chú bác khác vẫn cứ đi bình thường như không có cảm giác gì cả! Chú sợ quá không dám nói năng gì, thì chú đụi dụi mắt, hai thằng con trai của cô Huy mỗi đứa bá cổ hai bác đi cùng, lấy tay che mắt các bác lại. Da hai đứa này xám toét lại, mặt mũi máu me đen xì, vẫn cái lưỡi dài cùng miệng cười ngoác tận mang tai, hai tay bọn nó như dài như hai cái đòn gánh xoắn quanh đầu hai bác nữa, khum khum như che mắt họ lại, như cảm nhận được chú đang nhìn bọn nó, cả hai đắ từ từ vặn cổ ngược lại, lưỡi thụt ra thụt vào rồi cười khé...khé... Sau đấy vươn cổ dài ra như muốn dí sát mặt vào chú vậy, lúc này chú sợ quá liền quay mặt sang trái mà vô thức quên mất cô Huy (hay là thứ giống cô Huy) đang đứng bên cạnh, như đoán trước được chú sẽ quay sang, miệng nó càng lúc càng rộng rồi rách toạc ra, vẫn điệu cười giống hệt hai đứa phía trước, nó giơ hai tay với móng tay cáu bẳn dài ngoằng cùng há mồm như chậu máu về phía chú... Đúng lúc nó định làm gì với chú thì như bị một tầng vô hình ngăn lại, nó gào rú lên đau đớn một cách ghê rợn rồi hú một tiếng, hai con ma quái kia liền từ mấy bác phía trước buông chi trước đang xoắn quanh đầu họ ra, bò lại phía cái bóng kia... Rồi hai con bám lấy phần thân giữa con quái quỷ giống cô Huy ấy, nó liền từ từ trèo lên ngọn tre rồi nhảy từ ngọn này sang ngọn khác, sau đấy mất hút luôn trong ánh trăng. Lúc này chú Thả mới ngồi bệt xuống đất thở, chú tưởng chết chắc hôm nay rồi, sau một hồi chú bật dậy lay lay mấy người đi cung,f ai cũng như dại ra đứng đực giữa đường không cử động một tí nào, chú lại lay lay mấy cái, thì mấy ong này mới sực tỉnh. Ai cũng nghỉ là mệt quá ngủ quên giữa đường, nhưng nghe chú Thả kể lại thì mặt ai cũng trắng bệch ra, không ai bảo ai quay ngược về làng.
Tầm trưa nắng oi ả không ngừng, việc đồng áng vào mùa nên ai cũng vừa thở dốc vừa nghỉ ngơi một chút rồi lại làm việc. Khi mọi người đang nghỉ dưới gốc cây bông cụ gần ruộng làng cho mát thì thấy chú Huy chạy ra, ai cũng thấy là lạ, Vì nguyên lai trước nay chú Huy là dân trí thứ, ít khi ra đồng, nay lại dở điên dở dại nên ai cũng thấy khó hiểu. Chú chạy lại phía dân làng vừa cười vừa khóc rồi nói:
- Nó bắt vợ tôi... Tôi mất vợ rồi... Vợ con tôi...
Rồi nói đến đây chú lại cười khe...khé lên làm ai cũng giật mình sởn tóc gáy cả lên, chú Thả thấy thế mới hoảng hốt, vì nó giống hệt giọng cười hôm qua mà con quỷ quái giống cô Huy cười, chú mới gặng hỏi:
- Nói cho em biết nó là ai hả bác Huy? Hay là cái gì??
Lúc này chú Huy đang cười mới trợn tròn mắt ra, càng cười tợn hơn, cười đến mức thè cả lưỡi ra không thwor nên hơi mà nói đứt tiếng:
- Nó bắt hết.. hé..hé..hé..
Dần đàn thì mọi người thấy chú Huy không ổn thì mấy người đàn ông nhìn nhau, cùng chạy lại ôm lấy chú Huy, sợ chú lại phát cơn động kinh, liền chạy lại mỗi người ôm lấy một phần chân tay chú, ai dè lúc này chú tự nhiên khỏe không thể tin được, chú Huy hất nhẹ vai một cái làm mấy bác mất đà ngã chúi hết xuống. Mọi người đang ngạc nhiên thì chú càng cười tợn, rồi chạy như bay tới dòng sông cạnh đồng, mọi người vội vã chạy theo chú. Chú chạy lên cái cầu gỗ liền quay lại nhìn đám người làng, rồi chú vẫn cười, lưỡi lúc này thè dài hẳn ra, mắt trợn tròn lên chảy máu ra, miệng thì há rộng hết cỡ, chú đăm đăm nhìn dân làng một lượt rồi nói trong tiếng cười một thanh âm ghê rợn:
- Tao bắt hết...tao giết hết...
Rồi chú nhảy ùm xuống sông, lúc này mọi người vội vã chạy đến cũng nhảy xuống mò vớt mà chả thấy chú đâu. Không cần nhìn cũng biết ai đấy đều vô cùng sợ hãi, mọi chuyện kéo dài trong hai ngày, mỗi ngày đều cho người giăng lưới tìm xác chú nhưng không thấy, thì cụ Nhĩ về!
Lần này cụ Nhĩ đi khá lâu, hơn một tháng, nghe nói cụ về thăm môn phái cũ của cụa ở mạn Ninh Bình, nhưng đồng môn giữ lại nên cũ trễ nãi như vậy. Vừa về đến làng, cụ Nhĩ bỗng sửng sốt, rồi lấy cái La Bàn ra xoay xoay một chút, rồi bước nhanh về phía cánh đồng chung của làng, lúc này hầu như tất cả dân làng đều tập chung ở đấy cả. Cụ đi đến thì mọi người đều dạt cả ra cho cụ đi vào, cụ hỏi thăm thật kỹ rồi thở dài. Lúc này sau khi biết chuyện gia đình cô Huy thì cụ cũng giật mình lắm, vội rút ra một quyển thẻ tre, rút ra một thẻ rồi lấy thổi lửa từ ông mồi châm vào thẻ tre. Lúc này thẻ bùng lên cháy như tẩm dầu lạc vậy, cụ mới cầm mẩu tre cháy dở ném xuống sông, lầm nhầm mấy câu, lúc này thẻ tre rơi xuống sông vẫn tiếp tục cháy mạnh rồi trôi ngược dòng ra gần giữa sông. Cụ mới quay sang bảo các mấy bác trong làng bơi thuyền ra chỗ ấy vớt xác chú Huy lên, lúc thuyền ra giữa dòng thì mặt sông quanh đấy hai mét sủi bọt tăm lên, một mảnh sông đang xanh biếc chuyển sang màu đỏ lựng như phù sa, rồi sác chú Huy nổi lên từ đáy sông, mặt bị nước vào phù ra, nhưng không che hết vẻ quỷ dị trước khi chết của chú: Vẫn mắt lồi như gần rơi ra, lưỡi thè hẳn ra dài cả nửa gang tay, và vẫn giữ nụ cười ám ảnh trước lúc nhảy sông đấy.
Cụ Nhĩ nhìn thấy xác của chú Huy liền đứng yên lặng nhìn chăm chăm vào, cụ đang suy nghĩ cái gì đấy, sau đấy cụ quay sang hỏi cụ An:
- Nghe nói hôm nhà cô Huy treo cổ chết cụ ở đấy phỏng"
Cụ An gật đầu, rồi kể lại tỉ mỉ một lần cho cụ Nhĩ nghe, càng nghe lông mày cụ càng nhíu lại, cụ Nhĩ mới thở ra một hơi nói.
- Thôi hỏng, lần này việc khó rồi!
Nghe cụ Nhĩ nói thế ai cũng lo lắng, sau một hồi thì cụ Nhĩ mới tiếp lời, cụ bảo:
- Các cụ nhầm đây là do có con ma Thần Vòng nó xui cô Huy treo cổ nên mới đào đất ba thước tìm Thần Vòng, nhưng tôi suy đoán thì đây không phải Thần Vòng gì cả, các cụ bị nó đánh lừa rồi!
Cụ An thấy thế biến sắc, mới quay sang thảng thốt:
- Tôi có cho người cắt dây, đào dưới phần xác, có điểm nào sai hả cụ?
- Tôi e đây là Quỷ Câu Hồn, chứ chẳng phải Thần Vòng gì, ma Thần Vòng chỉ là Á Quỷ làng nhàng dụ dỗ người ta treo cổ mà chết lúc người ta đang bấn loạn, con con Câu Hồn Quỷ này thì khác, nó rút từ từ phần hồn phách của người ta. Con người có ba hồn bảy phách, nó đánh lừa mà khiến người ta tự giao ra hôn cho nó, nó huyễn hoặc người ta tự mình tìm chết. Mà còn độc địa hơn, Câu Hồn Quỷ giống như Hắc Bạch Vô Thường, đến trong minh minh, chỉ khác rằng Hắc Bạch Vô Thường là Dẫn Hồn Quỷ sứ, chuyên nhiệm vụ đưa hồn phách người tận dương thọ xuống Âm tào địa phủ để thưởng thiện phạt ác, tiến nhập Luân hồi, còn Câu Hồn Quỷ thì dụ dỗ người nhẹ dạ, nhằm cướp lắm hồn người ta, để làm nô bộc cho nó, hoặc làm thức ăn nuôi dưỡng nó, hoặc đôi khi chỉ lấy hồn phách người ta chỉ vì sở thích của nó, muốn chơi đùa! Vậy nên, Câu Hồn Quỷ vừa tà ác vừa gian trá, rất khó đối phó!!!
Nghe cụ Nhĩ nói thế dân làng ai cũng run lên vì sợ, hồi ức vê Quỷ Di Ái vẫn chưa phai nhạt chút nào, cụ Nhĩ lại đăm chiêu, thì lúc này bỗng nghe tiếng cười the thé vang lên, mọi người nhìn xung quanh thì không thấy phát hiện được gì, bỗng lúc này xác chú Huy giật giật mấy cái, rồi bò nhanh rồi nhảy tủm một cái xuống sông. Hành động nhanh quá khiến cho tất cả dân làng đều giật mình không kịp ngăn cản gì hết, lúc này cụ Nhi cũng không kém phần sửng sốt. Cụ liền bảo mọi người về hết, nhất định trong chiều nay tất cả phải có mặt đông đủ ở sân Đình, có lẽ mọi chuyện đã đi qua chiều khống chế của cụ!
Tối đến sân Đình đông nghẹt người, lần này thì có lẽ dân làng đã qua một lần tổng duyệt nên khá là nghiêm chỉnh, cụ Nhĩ mới hắng giọng nói to:
- Tôi không ngờ mọi chuyện nó lại rối rắm như thế này, e rằng Quỷ Câu Hồn nó đã mạnh lắm rồi, vậy nên phải có sự giúp sức của cả làng thì mới ổn việc được. Bây giờ tôi chỉ nói như thế này, Quỷ Câu Hồn không sợ Phù chú, không sợ Dương khí, vậy nên ta có tìm vật có tính kỵ tà cũng không ăn nhằm gì. Các chú thím cứ cứ tìm cho tôi các thứ sau: Gạo nếp, gỗ táo già, chông tre, cùng máu gà. Ngoài ra cho tôi mượn chín con chó mực! Cùng cái vạc đồng của Đình, còn lại thì cả làng cứ an tâm, tôi tất có an bài sau!
Cụ An mới boăn khoăn hỏi gấp:
- Cụ biết nó ở đâu hay sao?
- Lúc nãy, khi tôi đốt thẻ tre, lửa và muội than đã bám vào xác chú Huy, tôi chỉ cần bấm độn là sẽ tìm được nó ngay, cụ cứ yên chí!
SAu mỗi ngày một việc, thoắt cái chuẩn bị xong, cụ Nhĩ bấm độn đốt tay, rồi nhờ dân làng mang hết đồ tới gốc cây bông giữ đồng Than, ai cũng khí hiểu sao lại nơi này, cụ Nhĩ vừa bày biện vừa giải thích:
- Tất cả mọi sự đều không thoát khỏi được Dịch, tôi thấy nhà cô Huy nó dụ 3 người treo cổ, không khác gì ba dấu Khôn, Khôn tức là Đất. Vì treo cổ nên chân cách xa Đất, nên đồ hình là hình Khôn, oán khi tụ dưới Đất, mà do Câu Hồn Quỷ đã dụ ba mạng người chết, toàn là trẻ con và phụ nữ, nên nó nặng về phần âm. Cần phần Dương để trung hòa, vâỵ nên cần chú Huy bị nó dẫn chết ở dưới nước, cốt để âm khí thêm nặng oán khí thêm tinh, nhưng lại phải có nộ khí, sự giận dữ của người sắp chết làm giả Nghiệp hỏa, mới trung hòa Âm Dương được! Quẻ này là quẻ thứ ba mươi sáu: Địa Hỏa Minh Di- Tả Ao tiên sinh dịch nghĩa là "Mặt trời (Ly) lặn xuống đất (Khôn) thì gây ra Bóng tối (Minh) gây ra đau thương, mất mát, chết chóc... Suy ra đúng là hợp với sự nhà chú Huy...
Nói rồi cụ nhanh tay đóng cọc gỗ táo xuống đất, chia thành Lưỡng Nghi, Lục Hợp, Bát Quái, Cửa Cung bốn trận tất cả 108 cọc, sau đấy lấy chỉ ngũ sắc cẩn thận buộc lên từng cọc, vòng quanh đấy cụ rắc gạo nếp thành một đường nhỏ dài nối các cọc với nhau, Tiếp đến cụ nhờ người chôn ống tre đựng huyết gà xuống các vị trí khác nhau! Sắp xếp xong xuôi đâu đấy, cụ chỉ giữ lại mấy người con trai tuổi Thìn và Dần, đưa cho họ mỗi người bốn túi Càn Khôn rồi bôi máu gà khắp người, sau đấy cụ đứng đợi một mình ở đấy. Đúng như cụ dự đoán, tầm hai giờ sáng có một bóng đen lững thững đi chầm chậm lại gần cây bông, lúc nó tiến lại gần thì mới nhận ra đây là chú Huy, nhưng người chú đã bắt đầu rữa nát, thịt da trên người sau khi ngâm nước hai ba ngày vừa trương lên vừa mủn ra, lại bốc mùi tanh thối nồng nặc khiến người ta phải nhíu mũi. Nó vừa đi vừa cười khe khe, rồi giương mắt nhìn cụ Nhĩ, nói bằng một cái giọng khiến người ta cảm thấy ghê sợ:
- Cút điii.... Tao không muốn giết màyyyyy
- Đừng giả bộ vô can, không ngờ Quỷ Câu Hồn lại xuất hiện trắng trợn như mi, mi giết người làm vui, bôi nhọ chức danh Quỷ Sứ, lại còn dám lộng ngôn?
Nói rồi cụ lấy nắm đậu binh ra, ném về phía con quỷ. Con Quỷ cũng khôngnói nhảm nhiều, liền lao vút lại phía cụ Nhĩ, nó thè cái lưỡi dài ngoằng ra, há to miệng cắn một ngụm vào đám Đậu binh, ngay lập tức cắn mất một húm, Cụ Nhĩ cũng ko chịu kém, ngay khi nó nuốt Hồn binh, cụ bấm quyết làm lích nổ một cái, khiến con Quỷ trong xác chú Huy nổ bay mất nửa mặt. Nó gào rú lên một tràng dài, rồi phun một đám máu ra, từ đám máu hóa thành một đám quỷ đói, quỷ lùn, ma xó lao hết vào đám Đậu, tuy đám đậu tinh nhuệ nhưng ma xó ưu thế là đông, nó kềm chế lũ Hồn Binh của cụ Nhĩ, con Quỷ thấy thế liền móc vào bụng, rút ra một cái xương sườn, hà một hơi rồi lại liếm một cái, đàng sau nó hiện ra hơn chục cái vong. Nhưng cụ Nhĩ chỉ cần đảo mắt là thấy được cô Huy cùng hai đứa con trai của cô ấy, con Quỷ cười the thé rồi chỉ tay vào cụ Nhĩ, lầm bầm vài câu niệm chú! Cụ Nhĩ cũng không hoảng hốt, liền bấm quyết hét lớn.
- Tam Tà Thiên Địa Nhân, Thiên chi Thương Khung, Càn sinh chi vị Thánh! Địa chi Huyền Hoàng, Khôn diễn hóa chư Ma. Nhân chi vạn vật chi linh, thương sinh vận vật chi tà, Hồng Mông chi bất khí vị tức, Quỷ Thần chi bất vị thượng giai. Thiên Nhai quy vị bách lẻ bát cấm! Thiên Cang tam thập lục Cương! Địa sát thất thập nhị Sát! Sát SÁt SÁt!!!
Cụ Nhĩ vừa niệm xong pháp chú, thì từ một trăm linh tám cọc gỗ hiện lên ba mươi sáu hào quang màu đỏ nhạt, bảy mươi hai hào quang màu tím lam, bay về phía La Bàn của cụ, cụ tung cái La Bàn lên rồi ngồi xếp bằng xuống, sau đấy dùng phần cạnh sắc của LA Bàn rạch một đường dài trên tay, nhỏ lên La Bàn rồi niệm tiếp:
- Thiên Địa Huyền môn vô vi bất định, Lưỡng Nghi Âm Dương chi Âm trạch Dương Khí, Hắc Bạch Vô Thường Dẫn Hồn Quỷ sứ chi Âm Dương Hoàng Tuyền chưởng khống giả! Ta- Thái Vi đạo môn chi Thiên Nam Hộ Đạo giả, thỉnh Vô Thường hiện! Xuất Xuất Xuất!
Đàng sau lưng cụ xuất hiện một cánh cửa to, cánh cửa này hư hư ảo ảo, từ từ cánh cửa mở ra, xuất hiện hai bóng người cao lớn. Người bên trái áo trắng tóc trắng, lông mày trắng mắt đỏ, người bên phải tóc đen, áo đen, mắt trắng- hai kẻ này là Hắc Bạch Vô thường. Khi hai kẻ này xuất hiện, Quỷ Câu Hồn liền hoảng sợ, hắn gào thét rồi bắt đầu niệm chú gọi thêm càng nhiều vong, quỷ đói, hắn thét lên:
- Hắc Bạch Vô thường lại nghe theo một tên phàm nhân ư? Dẫn Hồn sứ giả của Diêm Vương như bọn mi thật danh khả hư truyền! Lũ phế vật!
Hắc Bạch Vô Thường lẳng lặng đứng cạnh cụ Nhĩ, yên lặng chờ đợi, lúc này cụ Nhĩ từ từ huyền phù so với mặt đất, liền đưa tay tung nhẹ chiếc La Bàn về phía con quỷ, nhất thời con Quỷ phun một đám máu đen, rồi nhân lúc cụ không để ý bay vút ra ngoài. Nó bay nhanh như con chim cắt, nếu không có chuẩn bị trước thì lúc này nó đã tẩu thoát, nhưng lúc này thì từ hai mười sáu cọc tre huyết gà tạo thành một vòng đổ nhạt, thành một màng nhỏ khiến con Quỷ không thoát ra được, nó gào thét, cắn xé nhưng không qua nổi cái vòng mỏng manh ấy.
Lúc ấy, Hắc Bạch Vô Thường mới nhẹ nhàng lướt tới, Hắc Vô Thường cầm xích, Bạch Vô Thường cầm liêm đao! Bạch Vô thường cầm đao gặt nhẹ một cái, đầu của xác chú Huy rơi xuống, từ cổ chú bay ra một làn khói đen, Hắc Vô Thường liền tung xích trói ngay con quỷ lại. Sau đấy chúng quay lại thì đậu binh và La Bàn chứa Linh khí của cụ Nĩ đã giải quyết hết đám vong quỷ kia rồi. Hai tên Vô Thường liền gật nhẹ đầu, rồi mang tên Câu Hồn Quỷ qua cánh cửa kia, nó từ từ khép lại!!!
Cụ Nhĩ thở dài, huýt sáo to cho mấy bác dân làng ra thu dọn bãi ngổn ngang, sau này cụ mới thuật lại: Hắc Bạch Vô thường là sứ giả mang hồn người chết về Âm phủ, là Quỷ Dẫn Hồn. Quỷ Dẫn Hồn chỉ có hai đứa, còn Quỷ Câu Hồn là một Á Quỷ tu luyện đã lâu, luyện thành thần thông, có phép câu hồn, chuyên dùng hút đi hồn phách của con người! Vậy nên, nếu gặp nơi nào cảm thấy tâm trí bản thân mình hơi mộng mị, cẩn thận, có thể có Quỷ Câu Hồn!!
Cụ bấm quẻ ra chỗ chết nhà cô Huy là quẻ ba mươi sáu Địa Hỏa Minh Di, vậy nên cụ xếp trận theo thẻ thứ năm Thủy Thiên Như, quẻ này hàm ý là "Lợi thiệp đại xuyên"- "Mọi chuyện hung hiểm, đều hóa lành cả", lợi thế đại Cát mà hóa nguy thành an. Lại nói, cụ Nhĩ tìm gỗ táo già là có mục đích cả, nếu ai chưa biết thì người xưa có câu "Táo già hóa Vàng Tâm"- Vàng tâm là loại gỗ quý dùng để đóng bài vị, bàn thờ, có tính thanh không kỵ tà, dùng an dưỡng đi hồn. Nhưng do khá quý nên cụ Nhĩ lấy gỗ già thấy, dùng để an tĩnh hồn vong quỷ, ma đói mà Quỷ Câu Hồn đã giết chết, sau đấy từ từ suy yếu nó rồi mới có thể tiêu diệt được.
Có thể nói, Ma Thần Vòng, Ma Da cũng có thể là Quỷ Câu Hồn cấp thấp, nếu chúng tu luyện, bắt thêm nhiều người mà ko nguyện ý luân hồi, thì sẽ trở thành Quỷ Câu Hồn thật sự!
 
Chỉnh sửa cuối:

cần gì cái tên

Ma Lão Luyện
4/6/17
66
8
34
Hay qúa bạn ơi còn nữa ko viết tiếp i.dag ngóng tớ rất thích những thể loại truyện thế này.cho bạn 1line
 

Liên Kết

Top Bottom